Danh mục:

Học cách yêu “cơm bình dân” tại TP.HCM





Ảnh: Victor Ngai
* Được viết bởi MATT GROSS, đăng trên nytimes.com ngày 2 tháng Năm, 2013. Là một bài viết rất thú vị về cuộc sống và văn hóa ẩm thực tại Sài Gòn dưới cái nhìn của  người nước ngoài.

-------


Vào mùa hè năm 1996, khi vừa mới tốt nghiệp, tôi chuyển đến TP.HCM  vì một lý do rất đơn giản: Tôi yêu các món ăn Việt Nam. Tại những nhà hàng ở bang Virginia, Maryland và Washington, tôi bắt đầu yêu thích những thành phần chính trong phong cách ẩm thực tại đây – thịt nướng, các loại rau thơm, rau giòn – và đặc biệt là Phở, một loại bún nước lèo có hương vị thịt bò, đồng thời cũng là món ăn đặc trưng của Việt Nam. Khi ngày tốt nghiệp đến gần, tôi biết rằng mình muốn sống tại nước ngoài, và Việt Nam – một đất nước vừa mới mở cửa cho phương Tây – là một lựa chọn hiển nhiên. Thật sự, đây cũng không hẳn là một lựa chọn – đối với tôi, đây là định mệnh.

Nhưng sau đó tôi nhanh chóng nhận ra rằng thích một phong cách ẩm thực không giống với việc hiểu nó. Cảm nhận đầu tiên về sự khác nhau này xuất hiện một vài tuần sau khi tôi đến sống tại đây, khi tôi ghé vào ăn trưa tại một nhà hàng trên phố. Nguồn năng lượng hỗn độn ngoài đường phố - từ dòng xe cộ đông như suối lũ, âm thanh chan chát của công trường xây dựng, những người du khách lóng ngóng – tiêu tan nhanh dưới cái nóng giữa ban trưa. Đây đúng là thời gian để ăn, để ngủ trưa, để thở và suy nghĩ, tránh xa ánh mặt trời miền nhiệt đới.

Khoảng thời gian nghỉ ngơi thong thả này có lẽ là lý do khiến tôi để ý đến một người đàn ông mang khẩu súng. Ông ta đứng bên kia đường, dưới ánh nắng sáng tỏ ban ngày. Ông ta là người Việt Nam khoảng ngoài 40, đeo một chiếc kính mát. Và phía bên hông, ông ta đang mang một thứ mà tôi đoán là một khẩu Uzi. Sau đó, ông ta nhanh chóng biến mất vào một cửa hàng. Nếu ngoài đường vẫn còn đông đúc với những chiếc Honda 100 phân khối như 1 tiếng trước đây, có lẽ là tôi sẽ hoàn toàn không để ý đến ông ta.

Thật là một cảnh tượng kỳ quặc, và tôi muốn hỏi một ai đó – bất kỳ ai – về việc này. Người đàn ông đó là một tên cướp? Hay một tay cớm? Ngay lúc đó thì phần ăn của tôi được dọn lên, và tôi nhanh chóng quên ngay về người đàn ông kia. Tôi đã không biết phải gọi món gì, nhưng có một món trong thực đơn thu hút sự chú ý của tôi: lươn nướng mía – lươn nước ngọt được quấn quanh khúc mía (đựng trong một tô với nhiều loại rau mùi) và được nướng bằng than. Ngay khi cho vào miệng, tôi cảm thấy yêu ngay. Thịt lươn rất béo và ngậy mỡ, tan chảy dưới nhiệt độ than riu riu, thấm đượm mùi tỏi, nước mắm và vị ngọt của mía nguyên chất. Bản thân của khúc mía khi cắn vào, tươm ra thứ nước đường ngọt lịm, hòa quyện vào miếng lươn bóng bẩy đầy thịt.

Đây là thứ mà tôi biết chắc rằng mình không thể mang về đất nước mình. Đó là lý do vì sao tôi chuyển chỗ ở và đến Việt Nam này. Món lươn tuyệt vời đến nỗi tôi muốn quay sang người ngồi bên cạnh và bảo với họ rằng nó có thể biện minh cho mọi thứ.

Nhưng chẳng có ai ngồi bên cạnh tôi cả. Tôi đang ngồi một mình trong nhà hàng này – chỉ một mình và bối rối. Dù sao thì đây cũng có vẻ là một nơi chất lượng, mà món lươn là một bằng chứng. Thế thì những người khác ở đâu cả rồi? Tôi đang làm gì sai à?

Tháng đầu tiên tại Việt Nam trôi qua với nhiều điều khó hiểu như vậy. Xung quanh tôi, có thể chắc chắn, có nhiều trải nghiệm ẩm thực đang chờ đợi để được thưởng thức. Tuy nhiên tôi vẫn không thể nghĩ ra là mình nên ăn món gì, gọi món thế nào, ở đâu, khi nào và tại sao. Ví dụ, vào bữa trưa tôi hay gọi món phở tại quán Phở Hòa nổi tiếng trên đường Pasteur. Nhưng khi tôi nói điều này với các học viên trong lớp học tiếng Anh của tôi, trông họ khá lúng túng. Theo họ, phở là món để ăn sáng chứ không phải ăn trưa. Tôi phản đối lại: có rất nhiều người Việt Nam tại quán Phở Hòa Pasteur! Các học viên tỏ thái độ thoái lui, có vẻ họ không muốn cãi lại giáo viên, hoặc muốn tôi cảm thấy thoải mái. Oh, chắc chắn rồi, họ nói, thầy có thể ăn bất cứ món gì vào bất cứ khi nào thầy thích. Không sao – no problem.

Nhưng đó thật sự là vấn đề. Và tôi biết cội rễ của nó. Trong các nhà hàng Việt Nam tại Mỹ, các loại thức ăn được phục vụ cùng với nhau – mì, súp, đồ xào, gỏi cuốn. Nhưng ở Việt Nam, các nhà hàng thường phục vụ thành từng món riêng lẻ: phở, lẩu dê, bánh xèo (miếng bánh bột xếp lấy thịt heo và giá đậu bên trong). Thích nghi với điều này thật là khó. Chỉ biết vài loại món ăn, và với vốn từ vựng tiếng Việt ít ỏi, tôi thậm chí còn không biết nên hướng mình như thế nào. Tôi hiểu rằng mình chỉ cần bước đại vào một nhà hàng, chỉ vào bất cứ món gì mà tôi thấy bên bàn khác, và thưởng thức kết quả, nhưng sự sợ hãi và e ngại khiến tôi không thể làm thế. Liệu có điều gì khiến mình bị tách biệt khỏi đám đông hơn là việc không biết phải ăn thế nào cho đúng?

Càng nhiều lần tôi ghé vào các nhà hàng-không-phải-Việt Nam tại các quận dành cho Tây-ba-lô và khách du lịch. Chúng thường rất ngon: những món ăn Ý tuyệt vời, nhờ vào sự tươi ngon của quả cà chua và rau húng quế; những người khách viễn phương với yêu cầu rất cao về món Nhật chính hiệu; và một thế kỷ làm thuộc địa Pháp đã khiến các món như Pâté, rượu vang đỏ và súp hành tây mang hương vị không khác gì món bản xứ. Nhưng tất cả những bữa ăn đó càng nhắc tôi nhớ về sự thất bại của mình trong việc thấu hiểu văn hóa Việt Nam.

Vài tháng sau đó, tôi chuyển phòng trọ từ tầng sáu xuống tầng năm của ngôi nhà. Căn phòng mới rộng rãi hơn và có trang bị máy điều hòa, tuy nhiên, tôi chọn căn phòng này với một lý do rất đơn giản là vì nó có ban công lát gạch vuông, nơi rất lý tưởng cho những bữa trưa ngoài trời.

Nhưng mang gì về ăn bây giờ? Những chiếc sandwich kẹp thịt nguội và phô mai? Hay thịt lợn Thái ăn kèm rau húng quế? Một ngày nọ, khi đang tản bộ gần đường Bùi Viện, tôi nhìn thấy một người đàn ông đang nướng sườn lợn bên ngoài quán cơm bình dân - được dịch là “the people’s food” (cơm của người dân). Cơm bình dân có mặt tại khắp nơi trên đất nước Việt Nam. Chỉ với ít hơn 1 đô-la, bạn có thể có một dĩa cơm ăn kèm với nhiều món, như, thịt lợn kho nước mắm và đường, rau muống xào tỏi, hay canh khổ qua nấu với thịt lợn và nấm rơm.

Thế nhưng cơm bình dân chưa bao giờ thu hút sự chú ý của tôi. Có lẽ vì những chiếc bàn xếp, những chiếc ghế nhựa, và bộ đồ ăn bằng bạc cũ kỹ khiến mọi thứ trông thật tồi tàn. Có lẽ vì những món ăn làm sẵn, phải ngồi ngoài không khí ẩm thấp, khiến tôi chẳng muốn ăn. Có lẽ vì tôi cần đọc một bảng thực đơn. Hay có lẽ chỉ vì tôi e sợ. Khẩu vị của tôi có thể chấp nhận được thử thách, nhưng tinh thần mỏng manh của tôi thì lại không.

Tuy nhiên, khi tôi ngửi thấy mùi sườn nướng, tất cả mọi thứ liền thay đổi. Được ướp bởi tỏi, đường, nước mắm và hành lá, miếng sườn tỏa ra một mùi hương mãnh liệt của mỡ và đường thắng, những thứ khiến tôi không thể cưỡng lại được. Vậy là tôi quyết định đến gọi món – sườn nướng đặt trên cơm trắng, ăn kèm với rau muống và dưa leo thái mỏng – sau đó đem hộp cơm nhựa về chốn nghỉ ngơi trên tầng năm, nơi tôi có thể thưởng thức bữa ăn một cách vui sướng nhất.

Cơm bình dân ngay góc đường nhanh chóng trở thành điểm đến lý tưởng cho những bữa ăn khiêm tốn và ngon miệng của tôi. Thường thì tôi hay gọi món sườn nướng, nhưng bên cạnh đó còn có các món như mực xào thịt heo, cá chiên giòn. Và trứng chiên có thể thêm vào bất cứ món nào.

Dùng bữa trên ban công rất thích, nhưng càng lúc tôi càng quen dần với việc ngồi ăn cơm bình dân trên những chiếc bàn xềnh xoàng, quan sát cách mà những thực khách khác dùng bữa – với đũa, muỗng và thìa, hoặc với sự kết hợp của tất cả chúng. Tôi học cách họ chuẩn bị nước chấm, từ cách chế vào đĩa thứ nước mắm màu nâu đen thêm vài lát ớt, đến việc chan nước chấm – hỗn hợp của nước mắm, nước lọc, nước chanh và đường – từ những lọ nhỏ đặt sẵn trên bàn (tôi đã từng nghĩ nó là trà chanh – whoops!). Họ ăn một cách rất tự nhiên không khách sáo. Đây là một nơi nấu ăn ngon, nhưng đồng thời cũng là một điểm dừng chân để nạp năng lượng. Vì tôi quan sát và bắt chước họ, ngày qua ngày, tôi thậm chí không nhận ra rằng tôi đã bắt đầu ăn giống người bình thường tự bao giờ.

Và tôi cũng không nhận ra rằng việc nắm vững những bữa ăn như vậy có thể đem lại những hiệu quả gia tăng không ngờ. Bây giờ chỉ cần ăn bữa trưa ổn định thế này, tôi có thể ăn sáng và ăn tối theo cách tôi muốn. Tôi sẽ không cảm thấy tội lỗi khi bắt đầu bữa sáng chỉ với ly cà phê đen và chiếc bánh mì sừng trâu; vì vài giờ sau tôi đã có thể dùng bữa no nê với sườn lợn.

Tôi cũng có thể tự do khám phá vào những bữa tối; thử món bánh dosa trong các nhà hàng Nam Ấn mới mở, tiệc tùng với bạn bè trong những nhà nghỉ khu săn bắn, hay thỏa thuê với món ốc om và trai nướng trong một gara ô tô cải tạo gần sông Sài Gòn. Dù những bữa ăn đó ngon lành hay dở tệ, đem lại cảm giác chân thực hay giả tạo; thì tôi luôn biết rằng mình sẽ được ăn bữa trưa bình dân ngon lành vào ngày hôm sau.

Duy chỉ có một trục trặc nhỏ trong quá trình tiếp thu văn hóa của tôi. Bây giờ, khi đã hiểu nhiều hơn về bữa ăn trưa, thì nhà hàng đã từng phục vụ món lươn nướng mía không còn thích hợp với thói quen ẩm thực của tôi nữa – một khi tôi nhận ra rằng đó không phải là món ăn trưa, và bữa ăn tối thì có quá nhiều món ngon khác để khám phá. Tôi không bao giờ trở lại nơi đó. Món lươn nướng mía, gắn chặt vào kí ức của tôi, bây giờ chỉ như một thứ ảo ảnh do cái nóng gây ra, cũng viễn vong như hình ảnh người đàn ông với khẩu Uzi trên phố. Chỉ trừ một điều chúng đều có thật, thật như đám khói cuộn lên từ bếp than ở quán cơm bình dân trên đường Bùi Viện, trên hàng ngàn nẻo đường khắp đất Sài Gòn, và bất cứ nơi đâu mà những người bản địa bình dân vẫn thường tụ tập ăn uống.
------

Người dịch: Lam Tuyền
Xem bài gốc:
http://www.nytimes.com/2013/05/05/travel/learning-to-love-the-peoples-food-in-ho-chi-minh-city-vietnam.html


 

No comments:

Post a Comment